Hoàng đế Đại Ngu Hồ Quý Ly

Tháng 2 năm 1400, Quý Ly lúc ấy đã 64 tuổi, bức vua Trần nhường ngôi, buộc các quan và tôn thất ba lần dâng biểu khuyên lên ngôi. Quý Ly giả vờ ba lần từ chối, nói: Ta sắp xuống lỗ rồi, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất nữa. Rồi tự lập làm vua, đặt niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu, đổi thành họ Hồ.

Chưa được một năm, theo cách nhà Trần, ông nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn tự mình quyết đoán mọi công việc. Về phần Trần Thiếu Đế, do là cháu ngoại nên ông chỉ phế làm Bảo Ninh Đại vương và giam lỏng.[37]

Chính trị

Giếng Vua, di tích đàn Giao ở Thanh Hóa, nơi nhà Hồ thực hiện lễ Tế Giao, nghi lễ chỉ dùng cho Thiên tử.

Năm 1397, Hồ Quý Ly làm Phụ chính Thái sư, đã sửa đổi chế độ hành chính, nhằm tăng cường tổ chức của các khu vực hành chính, chia cả nước làm lộ và trấn; lộ hay trấn thống hạt phủ, phủ thống hạt châu, châu thống hạt huyện, huyện thống hạt xã. Để tăng cường sự thống nhất, nhà Hồ đặt các trạm dịch từ Thăng Long, phía bắc đến Lạng Sơn, phía nam đến Thăng Hoa.[38] Đổi Thanh Hóa làm trấn Thanh Đô, Quốc Oai làm trấn Quảng Oai, Đà Giang làm trấn Thiên Hưng, Nghệ An làm trấn Lâm An, Trường Yên làm trấn Thiên Quan, Diễn Châu làm trấn Vọng Giang, Lạng Sơn phủ làm trấn Lạng Sơn, Tân Bình phủ làm trấn Tân Bình. Sang đời Hồ, khi chiếm được hai châu Đại Chiêm và Cổ Lũy đã đặt làm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, gồm làm lộ Thăng Hoa, tức miền Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay. Cùng năm 1397, Quý Ly bức vua Trần dời đô vào Thanh Hóa, đặt Thăng Long (hay Đại La Thành) thành Đông Đô, gọi thành mới xây ở núi An Tôn thuộc Thanh Hóa là Tây Đô.[39]

Thành nhà Hồ xây dựng ở vị trí đặc biệt hiểm yếu, nằm giữa hai con sông lớn là sông Mã và sông Bưởi, vây quanh là hệ thống núi non hiểm trở: Đốn Sơn, Yên Tôn, Hắc Khuyển, Xuân Đài, Trác Phong, Tiến Sĩ, Kim Ngọ, Ngưu Ngọa, Voi. Có lẽ Hồ Quý Ly cũng nhận ra rằng lòng dân - nhất là ở Thăng Long, không ủng hộ việc Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần nên đã lui về Tây Đô. Ngoài ra, việc dời đô còn nằm trong chiến lược phòng thủ đối với nhà Minh.[cần dẫn nguồn]

Thành nhà Hồ có chu vi trên 3,5 km, rộng khoảng 150 hécta được xây dựng chỉ vỏn vẹn trong vòng 3 tháng, có thể thấy được sự khó nhọc, vất vả của binh lính, người dân bị điều đi làm phu xây dựng thành. Nhà Hồ đã không quan tâm đến việc khoan thư sức dân, liên tục bắt binh lính, phu phen xây dựng các công trình, trong đó đỉnh cao là Thành nhà Hồ, bất kể đời sống người dân lúc ấy vô cùng khốn khó. Câu chuyện về nàng Bình Khương có chồng là dân phu bị chết khi xây dựng Thành nhà Hồ, nàng đã đập đầu chết theo và được dân chúng lập đền thờ, phần nào cho thấy sự oán hận của người dân đối với các công trình xây dựng của nhà Hồ[40]. Dù Hồ Quý Ly chọn Thanh Hóa làm kinh đô, nhưng khắp tỉnh Thanh Hóa lại không hề có một am, miếu nào thờ Hồ Quý Ly, trong khi có hơn 70 đền thờ Trần Khát Chân (vị tướng bị Hồ Quý Ly giết). Ngay chân thành nhà Hồ, người dân dựng ngôi đền thờ người đốc công bị Hồ Quý Ly chém đầu vì để chậm tiến độ xây thành. Điều đó cho thấy nhân dân thời đó oán ghét Hồ Quý Ly đến thế nào.[cần dẫn nguồn]

Tháng 8 năm 1402, Hồ Hán Thương cho đắp đàn Nam Giao, hôm tế, Hán Thương ngồi kiệu Vân Long, từ cửa Nam đi ra, các cung tần, mệnh phụ, quan văn, quan võ trong triều theo thứ tự đi sau. Mũ áo của đàn bà kém chồng một bậc, nếu bản thân là tôn quý thì không phải kém. Đàn Nam Giao chính là nơi biểu hiện quyền lực tinh thần của vương triều trước trời – đất và lịch sử dân tộc, nhà Hồ coi mình là Thiên tử, không khác gì với các vị vua Trung Quốc.[41]

Hồ Quý Ly bãi bỏ quốc hiệu Đại Việt mà lấy Quốc hiệu “Đại Ngu”, hàm ý hướng về Nghiêu Thuấn ở Trung Quốc, quê hương gốc gác họ Hồ. Chữ “Ngu” có nghĩa là “sự yên vui, hòa bình”, và có nghĩa là "con trâu". Tên nước này chệch khỏi truyền thống nước Việt, có ý vọng ngoại, nên lòng dân không phục, nhất là các trí thức quan lại có ý thức dân tộc. Nhiều sử gia như Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư đều chê cười việc làm này của Hồ Quý Ly, gọi đó là "Không phải mả nhà mình mà cúng là siểm nịnh", "... họ hàng xa xôi, các đời biến đổi, khó mà tin được. Quý Ly lại nhận là dòng dõi xa của Hồ Công Mãn, tế Ngu Thuấn làm thủy tổ, thì cái tội dối đời để tiếm ngôi thực không gì to bằng".[cần dẫn nguồn]

Kinh tế

Bản vẽ tiền Thông bảo hội sao.Tiền Thánh Nguyên Thông bảo đời Hồ Quý Ly.

Từ năm 1396, trước khi lên ngôi, Hồ Quý Ly đã cho phát thứ tiền giấy gọi là Thông bảo hội sao. In xong, ra lệnh cho dân cả nước đến đổi 1 quan tiền đồng lấy 1 quan 2 tiền giấy. Cấm tiêu riêng, chứa riêng tiền đồng; số tiền đồng thu hồi chứa ở kho Ngao trì kinh thành và trị sở các huyện. Phạm tội chứa tiền đồng hình phạt cũng như làm tiền giả. Thể thức tiền giấy: tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2 tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ 1 quan vẽ rồng. Kẻ nào làm tiền giả bị xử tử, tài sản bị tịch thu. Lại cho đánh thuế các thuyền buôn, chia ra 3 mức: thượng, trung, hạ.[42][43]

Tuy nhiên, việc dùng tiền giấy không được sự ủng hộ của dân chúng và nhà Hồ đã thất bại trong cuộc cải cách tiền tệ này. Thực tế, đến năm 1403, tức sau bảy năm ban hành, tiền giấy vẫn không được ưa dùng, và do nhà nước cấm tiền đồng, nhân dân buộc phải trao đổi theo hình thức hàng đổi hàng. Nhà nước đã phải định giá tiền giấy cho trao đổi, lập điều luật định tội không tiêu tiền giấy.[cần dẫn nguồn]

Lý do quan trọng nhất là tiền Thông bảo hội sao của nhà Hồ rất dễ làm giả (thời đó chưa có các công nghệ chống làm tiền giả phức tạp như ngày nay). Ngoài ra, mực in tiền thời đó cũng không bền, chỉ cần dính mưa, dính nước là nhòe không tiêu được nữa, người chủ coi như mất tài sản (tiền đồng thì không sợ ướt như vậy). Như vậy việc dùng tiền giấy thời đó đã đi ngược nguyên tắc phát hành tiền tệ, đó là phải có đủ cơ sở để nhân dân tin tưởng vào giá trị giao dịch của đồng tiền. Một lượng lớn tiền giả được tung ra tất yếu dẫn tới việc tiền giấy bị mất giá, tức là lạm phát. Ngoài ra, nếu triều đình lạm dụng việc in tiền giấy để bù đắp thiếu hụt ngân khố thì lạm phát càng nghiêm trọng.

Một số học giả đương đại ca ngợi cải cách của Hồ Quý Ly về phát hành tiền giấy là "đi trước thời đại", nhưng thực ra chính sách phát hành tiền giấy đã được nhà Tống (Trung Quốc) áp dụng từ 3 thế kỷ trước đó, nên cũng không thể coi đây là "phát minh" của Hồ Quý Ly. Vấn đề là nhà Tống đã nhận ra những nhược điểm của tiền giấy vào thời kỳ đó (dễ làm giả, người dân không tin tưởng) nên không áp dụng với quy mô lớn, phần lớn tiền tệ của nhà Tống vẫn là tiền đồng. Sau này nhà Nguyên kế tiếp nhà Tống, thời Nguyên Vũ Tông (cai trị 1307 – 1311) do bị thiếu hụt ngân khố nên đã hạ lệnh in rất nhiều tiền giấy, kết quả là tiền giấy bị mất giá trị nghiêm trọng, đời sống nhân dân xáo trộn. Hồ Quý Ly cũng giải quyết vấn đề ngân khố theo cách làm của Nguyên Vũ Tông, và kết quả là cũng thất bại giống hệt như vậy.[cần dẫn nguồn]

Cũng có quan điểm cho rằng việc Hồ Quý Ly phát hành tiền giấy, cấm tiêu tiền đồng không chỉ vì vấn đề ngân khố, mà còn để thu về tiền đồng nhằm lấy nguyên liệu đúc vũ khí (súng thần công thời đó đúc bằng đồng). Đây là một sáng kiến xuất phát từ nhu cầu phục vụ chiến tranh chứ không phải nhu cầu phát triển kinh tế hàng hóa. Một số học giả đương đại cho rằng chính sách phát hành tiền giấy nhằm phát triển trao đổi thương mại, nhưng thực ra họ đã nhầm lẫn lớn về mục đích thực của Hồ Quý Ly.

Theo Phan Huy Chú bình trong sách Lịch triều hiến chương loại chí:

Tiền giấy chẳng qua chỉ là mảnh giấy vuông, phí tổn chỉ đáng 5, 3 đồng tiền mà đổi lấy vật đáng 5, 6 trăm đồng của người ta, có nhiên không phải là cái đạo đúng mức. Vả lại, người có tiền giấy cất giữ cũng dễ rách nát, mà kẻ làm giả mạo sinh ra không cùng, thực không phải là cách bình ổn vật giá mà lưu thông của cải vậy. Quý Ly không xét kỹ đến cái gốc lợi hại, chỉ ham chuộng hư danh sáng chế, để cho tiền của hàng hóa thường vẫn lưu thông tức là sinh ra ứ đọng, khiến dân nghe thấy đã sợ, thêm mối xôn xao, thế có phải chế độ bình trị đâu![43]

Năm 1403, đặt ra chức Thị giám tức người coi chợ, ban hành các đồ đo lường (cân, thước, đấu, thưng), định giá tiền giấy cho mua bán với nhau. Bây giờ phần nhiều người buôn bán chê tiền giấy, lại đặt ra luật lệ để xử tội ai không tiêu tiền giấy.[44] Chính sách này càng làm hạn chế hoạt động kinh doanh buôn bán trong đời sống xã hội[45].

Nhà Hồ ngoài việc dùng pháp luật cưỡng bức còn đưa ra nhiều biện pháp khác cố làm cho đồng tiền đó được lưu hành rộng rãi trong nhân dân. Năm 1401 đặt ra kho thường bình, nghĩa là luôn luôn cân bằng, phát tiền giấy cho các lộ, theo giá cả mua thóc chứa vào kho, nhằm bình ổn giá thóc. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, bây giờ số quan lại ở các phủ, châu, huyện có sự thay đổi nên không làm được.[46]

Định lại các lệ thuế và tô ruộng, triều trước mỗi mẫu thu 3 thăng thóc nay thu 5 thăng. Bãi dâu, triều trước mỗi mẫu thu 9 quan hoặc 7 quan, nay thu hạng thượng đẳng mỗi mẫu 5 quan tiền giấy; hạng trung 4 quan tiền giấy, hạng hạ đẳng 3 quan tiền giấy. Tiền nộp hằng năm của đinh nam trước thu 3 quan, nay chiểu theo số ruộng, người nào chỉ có 5 sào thì thu 5 tiền giấy; từ 6 sào đến 1 mẫu thì thu 1 quan; 1 mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5 sào thu 1 quan 5 tiền; từ 1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu thu 2 quan; từ 2 mẫu 1 sào đến 2 mẫu 5 sào thu 2 quan 6 tiền, từ 2 mẫu 6 sào trở lên thu 3 quan. Đinh nam không có ruộng, trẻ mồ côi, bà góa dẫu có ruộng cũng được miễn trừ.[44]

Giáo dục

Từ năm 1396, Hồ Quý Ly đã cho thay đổi cách thi tuyển. Ban đầu thời Trần thi Thái học sinh chia ra thượng trại, hạ trại; thi Đình chia ra kinh, trại (Nghệ An, Thanh Hóa thời Trần gọi là Trại) lấy đỗ Tam khôi, văn thể không xác định. Đến đây, dùng phép thi của nhà Nguyên, dùng văn thể bốn trường, bỏ bài ám tả cổ văn. Trường thứ nhất thi một bài kinh nghĩa hạn 500 chữ trở lên, trường nhì thi bài thơ Đường luật, một bài phú dùng thể Ly tao hoặc cổ thể hoặc văn tuyển hạn 500 chữ trở lên; trường tam thi chiếu chế biểu; trường tư thi văn sách, ra đề về kinh sử hạn 1000 chữ trở lên.[47]

Năm 1397, Hồ Quý Ly có ban tờ chiếu với nội dung là lệnh cho các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc và Hải Đông đặt một vị học quan, được cấp ruộng công, từ đó thu học trò mà dạy dỗ rồi hàng năm tiến cử cho triều đình. Theo sử gia Ngô Sĩ Liên, tờ chiếu ban ra tốt đẹp, nhưng không thấy thi hành, theo sử gia đó là cách Quý Ly lấy lòng nhân tâm.[48]

Đến năm 1402, Hồ Hán Thương định cách thức thi cử nhân: Tháng 8 năm nay thi Hương, ai đỗ thì được miễn lao dịch, tháng 8 năm sau thi ở Lễ bộ, ai đỗ thì bổ dùng, lại đến tháng 8 sang năm nữa thi Hội, ai đỗ thì sung Thái học sinh, cứ ba năm một khoa. Phép thi theo nhà Nguyên, thi ba trường, lại có kì văn sách là trường tư, một kì thi viết và tính là trường năm.[49]

Quân sự

Có lần Hồ Quý Ly nói với các quan rằng: Làm sao để có 100 vạn quân để chống giặc Bắc? Viên Đồng tri Khu mật sứ Hoàng Hối Khanh dâng lên kế sách, làm sổ hộ tịch trong cả nước, biên hết vào sổ những nhân khẩu từ hai tuổi trở lên và lấy số hiện tại làm thực số, không cho người lưu vong mà vẫn biên tên trong sổ. Yết thị cho các phiên trấn hễ có người kinh[50] nào trú ngụ thì đuổi về nguyên quán. Đến năm 1401, làm sổ hộ tịch xong, tính số người từ 15 tuổi trở lên 60 tuổi trở xuống được gấp bội so với trước, cho nên năm 1402 điểm binh càng nhiều.[51]

Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương lập phép hạn chế gia nô, chiếu theo phẩm cấp được cấp số lượng khác nhau, thừa phải dâng lên triều đình. Bây giờ nhiều sĩ đại phu tham phú quý, muốn được lòng nhà Hồ, dâng thư khuyên giết hại con cháu nhà Trần, giảm bớt số ruộng và nô để nén bớt thế lực của họ.[52]

Vũ khí, thiết bị quân sự vào thời kỳ này đã có những bư­ớc tiến quan trọng về mặt kỹ thuật và tính năng. Hồ Nguyên Trừng cải tiến loại súng thần cơ để nâng cao sức công phá, hơn hẳn súng thần cơ thời nhà Trần. Thủy binh đã được trang bị thuyền chiến lớn hơn. Cho đóng nhiều thuyền đinh sắt để phòng quân Minh, có hiệu là Trung tàu tải lương, Cổ lâu thuyền tải lương, chỉ mượn tiếng là chở lương thôi nhưng bên trên có đường sàn đi lại để tiện việc chiến đấu, bên dưới thì hai người chèo một mái chèo.[53] Bên cạnh đó, nhà Hồ xây dựng các hệ thống phòng tuyến trên mặt đất để phòng thủ quốc gia như thành Tây Đô, thành Đa Bang và cả một hệ thống công trình phòng thủ có quy mô lớn, dài gần 400 km kéo dài từ núi Tản Viên, men theo sông Đà, sông Hồng, sông Luộc đến cửa sông Thái Bình.

Năm 1405, Hồ Hán Thương định quân Nam ban và Bắc ban, chia thành 12 vệ; quân Điện hậu đông và tây chia thành 8 vệ; mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 người. Đại quân thì 30 đội, trung quân thì 20 đội, mỗi doanh là 15 đội, mỗi đoàn là 10 đội, Cấm vệ đô thì 5 đội, do Đại tướng quân thống lĩnh.[54] Tổng số quân trong 12 vệ Nam Bắc là 4.320 người, trong 8 vệ Đông Tây là 2.820 người; trong mỗi đại quân là 540 người, trung quân là 360 người. Lại đặt hai vệ Thiên Ngưu và Phụng Thần thuộc quân Long tiệp, cùng đặt các chức thủy quân Đô tướng và bộ quân Đô úy. Lại thêm hương binh, chọn người có chức tước tạm cho cai quản. Mộ những kẻ vong mệnh làm quân dũng hãn, đặt chức thiên hộ và bách hộ để cai quản.[55]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hồ Quý Ly http://books.google.com/books?id=IFNrC0lVLvAC http://books.google.com/books?id=yzWsAAAAIAAJ http://suhoctre.com/cac-xung-dot-vung-mien-giua-ca... http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb135553564 http://data.bnf.fr/ark:/12148/cb135553564 http://www.avsnonline.net/library/ebooks/vn/lichsu... http://isni-url.oclc.nl/isni/0000000450938638 http://www.viethoc.org/eholdings/sach/dvsktt.pdf http://www.viethoc.org/eholdings/sach/kdvstgcm.pdf http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/1104